Nội dung
Bò Kalmyk là một trong những giống bò thịt cổ đại, có lẽ được người Tatar-Mông Cổ mang đến thảo nguyên Kalmyk. Chính xác hơn, những người du mục-Kalmyks đã gia nhập nhóm Tatar-Mongol.
Trước đây, các bộ lạc Kalmyk sống trong điều kiện khắc nghiệt ở Nam Altai, Tây Mông Cổ và Tây Trung Quốc. Giống như bất kỳ người du mục nào, người Kalmyks không quan tâm quá nhiều đến việc chăn nuôi, để họ tự kiếm thức ăn cả vào mùa hè và mùa đông. Các loài đay mùa hè và mùa đông đã "dạy" gia súc nhanh chóng tăng mỡ trong trường hợp tuyệt thực và phải làm với mức tối thiểu thức ăn không có chất lượng tốt nhất. Và cũng hình thành sức bền trong những chuyến vượt biên dài. Để tìm kiếm thức ăn, một con bò Kalmyk có thể đi bộ tới 50 km mỗi ngày.
Mô tả giống
Động vật với một hiến pháp mạnh mẽ. Họ có một xây dựng hài hòa. Chúng rất di động. Giống bò Kalmyk không khác nhau về tầm vóc rất lớn. Chiều cao đến vai 126-128 cm Chiều dài xiên 155-160 cm Chỉ số căng 124. Vòng ngực 187 ± 1 cm. Vòng ngực 17-18 cm Chỉ số xương 13,7. Khung xương mỏng và khỏe.
Đầu có kích thước vừa phải, nhẹ. Ngay cả những con bò đực cũng có sừng hình lưỡi liềm. Màu sắc của sừng xám nhạt. Gương soi mũi nhẹ. Cổ ngắn, dày, cơ bắp phát triển tốt. Vai rộng và được xác định rõ. Khung xương sườn nông. Gân có hình thùng. Ngực phát triển tốt, đặc biệt là ở bò đực. Lưng thẳng và rộng. Phần mông nổi lên trên vai ở bò cái, hoặc bên dưới phần vai ở bò đực. Croup thẳng. Chân dài, đặt tốt.
Màu của bò Kalmyk là màu đỏ. Có thể có các mảng màu trắng và vết sưng trên đầu, thân dưới, đuôi và chân.
Đặc điểm sản xuất
Vì là giống lấy thịt nên năng suất sữa thấp, chỉ đạt 650 - 1500 kg sữa với độ béo 4,2-4,4%. Thời gian cho sữa của bò Kalmyk là 8-9 tháng.
Những con bê này là đại diện gia súc họ cũng thích giữ chúng cho riêng mình, xua đuổi ngay cả chủ nhân của chúng khỏi chúng.
Về đặc điểm thịt, giống chó này là một trong những giống chó được nuôi tốt nhất ở Nga. Bò cái trưởng thành nặng trung bình 420-480 kg, bò đực 750-950 con. Một số nhà sản xuất có thể nặng hơn 1000 kg. Bê con nặng 20 - 25 kg khi mới sinh. Đến khi cai sữa lúc 8 tháng, cân nặng của chúng đã đạt 180-220 kg. Khi được 1,5-2 năm tuổi, cá bống tượng thuộc giống Kalmyk đã đạt trọng lượng từ 480-520 kg. Trong một số trường hợp, mức tăng cân trung bình hàng ngày có thể đạt 1 kg. Năng suất giết mổ từ động vật được cho ăn đúng cách là 57-60%.
Bức ảnh chụp một trong những con bò đực giống hiện đại của giống Kalmyk.
Loại trưởng thành sớm nhỏ hơn và có khung xương nhẹ.
Thịt bò thu được từ bò Kalmyk có hương vị rất cao. Nhu cầu sinh tồn đã dẫn đến sự xuất hiện của đàn gia súc Kalmyk để tích tụ mỡ ở tất cả những nơi có thể. Một con vật được vỗ béo có thể có tới 50 kg mỡ bên trong. Ngoài phần dưới da và phần tích tụ giữa các thớ thịt. Chính nhờ chất béo lắng đọng giữa các thớ cơ mà món thịt "cẩm thạch" nổi tiếng có được từ những chú bò tót Kalmyk.
Bò đực
Điểm cộng của giống Kalmyk
Điều kiện sống khó khăn trong vài thế kỷ đã ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh sản của gia súc Kalmyk. Bò Kalmyk được phân biệt bởi tỷ lệ thụ tinh cao: 85-90% và dễ đẻ, do thực tế là chúng đã phải làm việc mà không có sự giúp đỡ của con người trong nhiều thế kỷ và bê con trên thảo nguyên mở cửa cho mọi gió. Bê không rất dễ bị cảm lạnh.
Vào mùa đông, vật nuôi của Kalmyk phát triển um tùm với lớp lông tơ dày, cho phép nó qua đêm trong tuyết mà không gặp hậu quả gì. Bò Kalmyk được bảo vệ khỏi cái lạnh không chỉ bởi lớp lông tơ mà còn bởi lớp mỡ dưới da dày mà chúng lớn lên qua mùa hè. Do dự trữ chất béo lớn, một con bò Kalmyk có thể giảm tới 50 kg trọng lượng trước khi đẻ, và điều này sẽ không ảnh hưởng đến chất lượng của bê và lượng sữa.
Gia súc của Kalmyk có thể tồn tại trên cơ sở thức ăn gia súc rất ít ỏi. Vào mùa hè, anh đi lang thang dọc theo thảo nguyên bị cháy, vào mùa đông, anh đào cỏ khô từ dưới tuyết. Mối nguy hiểm duy nhất đối với đàn Kalmyk là đay. Cây đay “đen” vào mùa hè, cỏ cháy hết vì khô hạn, không kịp phát triển. Còn đay “trắng” vào mùa đông, khi tuyết phủ một lớp vỏ dày. Trong những thời kỳ như vậy, một số lượng rất lớn gia súc chết vì đói mà không được con người cho ăn. Không chỉ bò chết, mà cả cừu và ngựa nếu cứ được thả rông “chăn thả”.
Sống ở khí hậu lục địa khắc nghiệt nên giống chó này có khả năng chịu nóng và lạnh tốt. Người ta tin rằng điều này được tạo điều kiện thuận lợi bởi cấu trúc đặc biệt của da: gần mỗi sợi lông không có một ống dẫn bã nhờn, giống như ở các giống chó khác, mà là một số.
Giống bò Kalmyk thuộc nhóm giống bò chỉ được cải, chỉ hư. Nó không có đối thủ trên sa mạc, bán sa mạc và thảo nguyên khô cằn. Do đó, gia súc Kalmyk được bảo tồn như một nguồn vật liệu di truyền được sử dụng để lai tạo các giống bò khác.
Vào cuối thế kỷ 20, những nỗ lực đã được thực hiện để "cải tiến" giống bò Kalmyk bằng cách lai bò với bò đực Shorthorn và Simmental. Kết quả là không đạt yêu cầu, và ở hầu hết nước Nga ngày nay, họ thích lai tạo những con bò Kalmyk thuần chủng. Bò thuần chủng vượt qua Shorthorns và Simmentals về đặc điểm thịt bò của chúng.
Những nhược điểm của giống chó ngày nay chỉ bao gồm bản năng làm mẹ quá phát triển, trước đây giúp bảo vệ bê con khỏi sói, và ngày nay đe dọa tính mạng của chủ nhân của con bò.
Tính năng cho ăn
Bò thuộc giống này có thể ăn ngay cả thức ăn không thích hợp cho gia súc, bao gồm cả cây bán bụi. Một trong những đặc tính tốt nhất của giống gà này, được người chăn nuôi đánh giá cao là khả năng chăn nuôi chỉ ăn cỏ, không cần thức ăn đậm đặc. Chi phí chính của nông dân vào thời điểm này trong năm là mua muối cho bò.
Khi thiếu nước, động vật bỏ ăn, và do đó, trở nên gầy. Nhu cầu nước hàng ngày phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể của vật nuôi:
- lên đến 250 kg - ít nhất 40 lít nước;
- đến 350 kg - không dưới 50 lít;
- trên 350 - ít nhất 60 lít.
Sẽ là hợp lý khi đưa ra những hạn chế như vậy khi đồng cỏ thiếu nước. Nếu có đủ nước, nên cho gia súc uống nhiều nước.
Nhận xét của chủ sở hữu của gia súc Kalmyk
Phần kết luận
Gia súc Kalmyk rất lý tưởng để chăn nuôi bởi các nông dân lớn hoặc các khu liên hợp nông nghiệp, đặc biệt là ở các vùng thảo nguyên của Nga. Mặc dù giống gà này dễ dàng bén rễ ngay cả ở những vùng miền bắc khá khắc nghiệt, ở đó nó cần được cho ăn thêm ngũ cốc, điều này làm tăng chi phí kiếm thịt bò. Đối với một thương nhân tư nhân, việc nuôi một con bò thuộc giống này là hợp lý nếu anh ta chỉ tính lấy thịt từ cô ta. Mặc dù bạn có thể cố gắng lấy sữa từ những con bê đặc biệt ngoan ngoãn hoặc bị lạc.